[CPP] BIỆN CHỨNG LÀ GÌ? Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trò xương sống trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác – Lênin khi xem xét, kiến giải sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh hiện thực khách quan.
Biện chứng (hay phương pháp biện chứng, phép biện chứng) là một phương pháp luận, đây là phương pháp chủ yếu của cả nền triết học phương Đông và phương Tây trong thời cổ đại. Phương pháp biện chứng có nền tảng từ những cuộc đối thoại giữa hai hay nhiều người với những ý kiến, tư tưởng khác nhau và cùng mong muốn thuyết phục người khác.
Phương pháp này khác với hùng biện, trong đó một bài diễn thuyết tương đối dài do một người đưa ra – một phương pháp được những người ngụy biện ủng hộ.
Nhiều dạng khác nhau của biện chứng nổi lên ở phương Đông và phương Tây theo những thời kỳ lịch sử khác nhau (biện chứng chất phát – tự phát, duy tâm, duy vật).
CÁC GIAI ĐOẠN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG
Phép biện chứng là một khoa học triết học, vì vậy nó cũng phát triển từ thấp tới cao. Biện chứng là một lý thuyết cho rằng một cái gì đó – cụ thể hơn, tư duy con người – phát triển theo một cách thức được đặc trưng bởi cái gọi là ba đoạn biện chứng:
1. Chính đề: đầu tiên có một ý tưởng, hoặc một lý thuyết, hoặc một xu hướng vận động nào đó được gọi là một “chính đề”; một chính đề như thế thường sẽ tạo ra cái đối lập, do là, giống như hầu hết các sự vật tồn tại trên trời đất, có lẽ nó sẽ có giá trị hạn chế và sẽ có các điểm yếu;
2. Phản đề: ý tưởng hoặc xu hướng vận động đối lập được gọi là “phản đề”, bởi vì nó nhằm phản lại cái trước tiên, tức chính đề. Cuộc tranh đấu giữa chính đề và phản đề diễn ra cho tới khi đạt được một giải pháp nào đó mà, theo một nghĩa nhất định, vượt lên trên cả chính đề và phản đề do nó phát hiện ra được các giá trị riêng của chúng và do nó cố gằng bảo tồn các tinh hoa và tránh các hạn chế của cả hai;
3. Hợp đề: giải pháp đạt được ở bước thứ ba này được gọi là “hợp đề”. Đến khi đạt được, hợp đề đến lượt nó có thể lại trở thành bước thứ nhất trong một của ba đoạn biện chứng mới khác, và quá trình sẽ lại tiếp diễn như thế nếu hợp đề cụ thể vừa đạt được lại trở nên thiếu thuyết phục, hoặc trở nên không thỏa mãn. Trong trường hợp này, mặt đối lập sẽ lại nổi lên, và điều này có nghĩa là cái hợp đề vừa đạt được có thể được mô tả như là một chính đề mới, cái chính đề tạo ra được một phản đề mới. Do đó, ba đoạn biện chứng sẽ lại diễn ra ở một trình độ cao hơn, và nó có thể đạt tới cấp độ thứ ba khi một hợp đề thứ hai đạt được.
PHÂN BIỆT PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP SIÊU HÌNH
Biện chứng: là phương pháp xem xét những sự vật hiện tượng và những phản ánh của chúng vào tư duy, chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại của chúng, trong sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng.
Siêu hình: là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái đứng im, không vận động, tách rời cô lập và tách biệt nhau. Cách xem xét này cho ta nhìn thấy sự tồn tại của sự vật hiện tượng ở trạng thái đứng im tương đối, nhưng nếu tuyệt đối hóa phương pháp này sẽ dẫn đến sai lầm phủ nhận sự phát triển, không nhận thấy mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
2 NGUYÊN LÝ, 3 QUY LUẬT VÀ 6 CẶP PHẠM TRÙ TRONG TRIẾT HỌC DUY VẬT BIỆN CHỨNG – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM TRONG TRIẾT HỌC
I/ Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Nguyên lý này biểu hiện thông qua sáu cặp phạm trù cơ bản:
1) Cái chung và cái riêng
2) Bản chất và hiện tượng
3) Nội dung và hình thức
4) Nguyên nhân và kết quả
5) Khả năng và hiện thực
6) Tất nhiên và ngẫu nhiên
Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp của sự vật đó dựa vào 3 tính chất cơ bản (tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú) theo không gian và thời gian cụ thể.
II/ Nguyên lý về sự phát triển: là nguyên tắc lý luận mà trong trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật). Nguyên lý này biểu hiện thông qua ba quy luật cơ bản:
1) Quy luật mâu thuẫn: chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
2) Quy luật lượng – chất: chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
3) Quy luật phủ định: chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
Vậy kết lại, không nên xem sự vật đứng im một cách cứng nhắc mà luôn vận động và phát triển, trong quá trình này, chúng luôn tự đấu tranh phủ định lẫn nhau, từ đó cái mới ra đời tốt hơn cái cũ…